Đề tham khảo kỳ thi Tốt nghiệp THPT môn Ngữ văn - Năm học 2022 (Có gợi ý)

docx 5 trang Trần Thy 10/02/2023 7680
Bạn đang xem tài liệu "Đề tham khảo kỳ thi Tốt nghiệp THPT môn Ngữ văn - Năm học 2022 (Có gợi ý)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docxky_thi_tot_nghiep_thpt_mon_ngu_van_nam_hoc_2022_co_goi_y.docx

Nội dung text: Đề tham khảo kỳ thi Tốt nghiệp THPT môn Ngữ văn - Năm học 2022 (Có gợi ý)

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO KỲ THI TỐT NGHIỆP TRUNG HỌC PHỔ THÔNG NĂM 2022 ĐỀ THI THAM KHẢO BÀI THI: NGỮ VĂN Thời gian làm bài: 120 phút, không kể thời gian phát đề I. ĐỌC HIỂU (3 điểm) Đọc đoạn trích một con sông chảy qua thời gian luôn luôn mới đến, luôn luôn ra đi chảy qua lịch sử luôn già nhất và luôn trẻ nhất chảy qua triệu triệu cuộc đời sông để lại trước khi về với biển chảy qua mỗi trái tim người không phải màu đen độc ác của quân thù khi êm đềm khi hung dữ không phải gươm đao ngàn năm chiến trận một con sông rì rầm sóng vỗ không phải nghẹn ngào tiếng nấc trong muôn vàn trang thơ sau sụp lở hưng vong sau thù hận sóng trào làm nên xóm thôn, hoa trái, những ngôi nhà là bãi mới của sông xanh ngát tạo sắc áo, màu cây, và tiếng Việt là đất đai lấn dần ra biển [ ] là tâm hồn đằm thắm phù sa máu ta mang sắc đỏ sông Hồng dâng yêu thương đỏ rực đôi bờ nỗi khổ và niềm vui bất tận (Trích Sông Hồng, Lưu Quang Vũ, Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi, NXB Hội Nhà văn, 2018, tr. 286-288) Trả lời các câu hỏi sau: Câu 1. Đoạn trích trên được viết theo thể thơ nào? Câu 2. Theo đoạn trích, sông Hồng đã đề lại những gì trước khi về với biền? Câu 3. Những dòng thơ sau giúp anh/chị hiểu gì về vai trò của sông Hồng đối vói đời sống con người Việt Nam? một con sông rì rầm sóng vỗ trong muôn vàn trang thơ làm nên xóm thôn, hoa trái, nhũng ngôi nhà tạo sắc áo, màu cây, và tiếng Việt Câu 4. Nội dung hai dòng thơ sau có ý nghĩa gì với anh/chị? máu ta mang sắc đỏ sông Hồng nối khổ và niềm vui bất tận II. LÀM VĂN (7,0 điểm) Câu 1 (2,0 điểm) Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về sự cần thiết phải trân trọ̣ng những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Câu 2 (5,0 điểm)
  2. => Giữ gìn, trân trọng giá trị văn hoá dân tộc là điều vô cùng quan trọng đối với mỗi con người. 3. Bàn luận: * Vì sao cần phải trân trọng giá trị văn hoá dân tộc? - Biểu hiện của lòng yêu đất nước. - Bảo vệ giá trị văn hóa là bảo vệ nền tảng tinh thần của dân tộc. - Những giá trị văn hoá dân tộc tạo nên sức mạnh đoàn kết, nối kết các thế hệ. * Cần làm gì bảo vệ những giá trị văn hoá dân tộc? - Nhà nước có chính sách bảo vệ những giá trị văn hoá. - Mỗi cá nhân cần ý thức được ý nghĩa của những giá trị văn hoá, từ đó bảo vệ, trân trọng những giá trị đó. * Mở rộng: - Phê phán những kẻ phá hoại những nét đẹp của văn hoá dân tộc. - Cần học tập để hiểu rõ giá trị văn hóa dân tộc. - Tuyên truyền, tham gia giữ gìn, bảo vệ giá trị văn hóa. 4. Tổng kết. Câu 2: I. Mở bài: - Giới thiệu tác giả, tác phẩm: + Kim Lân là cây bút văn xuôi tiêu biểu của nền văn học Việt Nam. Các sáng tác của ông thiên về chủ đề nông thôn và người nông dân nghèo với ngòi bút phân tích tâm lý nhân vật tài tình. + Vợ nhặt là một trong những tác phẩm xuất sắc của Kim Lân viết trong bối cảnh nạn đói năm 1945. Tác phẩm đã ngợi ca giá trị tình thần của con người ngay trên bờ vực cái chết. - Giới thiệu vấn đề nghị luận của bài viết: cảm nhận về nhân vật bà cụ Tứ trong đoạn trích, từ đó bình luận ngắn gọn về tư tưởng nhân đạo của nhà văn trong tác phẩm II. Thân bài 1) Cảm nhận về nhân vật bà cụ Tứ trong đoạn trích. a) Giới thiệu nhân vật - Bà cụ Tứ là một người đàn bà nghèo khổ, cơ cực, phải tha phương cầu thực, trở thành dân ngụ cư với những thiệt thòi trước định kiến của xã hội. Chồng bà đã mất từ sớm, nhà chỉ còn mẹ góa con côi nuôi nhau đắp đổi qua ngày. - Cả đời bà lão long đong, lận đận, đến lúc gần đất xa trời mà vẫn không có tiền để thực hiện được ước mơ lớn nhất là lấy vợ cho con. Và giữa lúc đói kém, vào tâm điểm nạn đói năm 1945, người chết như ngả rạ khắp nơi, anh con trai lại lấy được vợ, đúng hơn là “nhặt vợ”. - Vì quá bất ngờ nên bà lão hết sức ngạc nhiên, đến mức không dám tin vào những gì mình nhìn thấy và nghe thấy. Mãi rồi cuối cùng bà lão cũng hiểu ra “cơ sự”. Đó là tình huống để bắt đầu những dòng cảm xúc của bà cụ Tứ trong đoạn trích. b) Cảm nhận về nhân vật bà cụ Tứ trong đoạn trích * Đoạn 1: “Bà lão cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình. Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không.” -> Phản ứng đầu tiên của bà cụ Tứ sau khi nghe lời giới thiệu của con trai về người đàn bà lạ “nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ”, khi hiểu ra sự tình là “cúi đầu nín lặng”. - “Bà lão hiểu rồi”: Phải sau rất nhiều sự kiện, đến tận lúc này, khi anh con trai phải nói một cách tường minh thì bà cụ Tứ mới hiểu. Một người phụ nữ trải đời, một người mẹ lẽ thường sẽ rất nhạy cảm với chuyện hệ trọng cả đời của đứa con trai độc nhất, thế mà mãi đến bây giờ mới hiểu ra sự tình. Vô lí nhưng lại hợp lí bởi bà không thể tưởng tượng con trai bà có thể lấy vợ dễ dàng đến thế. - Cái cử chỉ cúi đầu cho thấy sự nặng trĩu trong tâm tư khi bà không chỉ hiểu ra sự tình- rằng người đàn bà lạ đứng ở đầu giường thằng con trai bà và chào bà bằng u kia chính là “vợ nhặt” theo không về làm con dâu của bà, mà bà còn “hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự” bằng những trải nghiệm của cả một cuộc đời nghèo khổ dằng dặc. Cho nên lẽ ra phải mừng rỡ thì bà cúi đầu, thứ ngỡ là hạnh phúc với bà lại trở thành gánh nặng. Niềm vui không thể cất cánh bởi nỗi lo áo cơm ghì sát đất. - Bà nín lặng vì không biết phải nói gì khi trong bà đang thức dậy bao nhiêu cảm xúc hỗn độn “vừa
  3. * Đoạn 4: “Bà cụ Tứ vẫn từ tốn tiếp lời: - Nhà ta thì nghèo con ạ. Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi ra may mà ông giời cho khá Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời? Có ra thì rồi con cái chúng mày về sau. - Những lời dặn dò tiếp sau của bà là sự vun vén cho đôi trẻ, hướng các con vào tương lai tươi sáng “Vợ chồng chúng mày liệu bảo nhau mà làm ăn. Rồi ra may mà ông giời cho khá Biết thế nào hả con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời? Có ra thì rồi con cái chúng mày về sau”. Một lời động viên con giản dị, mang đậm niềm tin tâm linh của một bà mẹ nông dân từng trải, nhưng cũng thật cần thiết, bởi đó chính là nguồn động lực giúp cho mẹ con bà đủ vững vàng để vượt lên hoàn cảnh khắc nghiệt nhất của cái đói, cái chết. c) Đánh giá chung: * Bà cụ Tứ: Đoạn trích là những diễn biến tâm lí rất xúc động của bà cụ Tứ với đầy đủ các cung bậc của cảm xúc. Từ đó mà bà cụ Tứ hiện lên là linh hồn của tác phẩm, là hình tượng tiêu biểu cho vẻ đẹp các bà mẹ Việt nam: rất nhân hậu, rất bao dung, giàu lòng nhân ái, thương con vô hạn, hết lòng vun đắp cho các con được hạnh phúc, khát khao sống, khát khao yêu thương và truyền được ngọn lửa sống ấy từ mình sang cho các con. * Đặc sắc nghệ thuật: - Đặt nhân vật vào tình huống độc đáo, éo le để tạo cơ hội cho nhân vật bộc lộ, tỏa sáng những vẻ đẹp tâm hồn - Nghệ thuật xây dựng nhân vật: + Miêu tả tinh tế diễn biến tâm lí của bà cụ Tứ - người mẹ nông dân chất phác mà trải đời sâu sắc + Dựng đối thoại sinh động với ngôn ngữ nông dân theo lứa tuổi, giới tính mộc mạc, chân thực và sinh động tạo được sức hấp dẫn riêng. 2) Giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm. Qua hình ảnh nhân vật bà cụ Tứ trong đoạn trích, tác giả đã đồng cảm xót thương với số phận đau khổ của người nông dân trong nạn đói khủng khiếp năm 1945. Đặc biệt, tác giả đã phát hiện, trân trọng ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn của họ: dù nghèo đói và khổ cực đến đâu, ngay cả khi kề bên cái chết, họ vẫn thương yêu đùm bọc lẫn nhau, vẫn khao khát hạnh phúc gia đình, và không gì có thể cướp đi niềm tin vào cuộc sống và tương lai của họ -> Kim Lân tâm sự: "Khi viết về nạn đói người ta thường viết về sự khốn cùng và bi thảm. Khi viết về con người năm đói người ta hay nghĩ đến những con người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một truyện ngắn với ý khác. Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai. Họ vẫn muốn sống, sống cho ra con người”. III. Kết bài Khẳng định giá trị của tác phẩm và vị trí của tác giả./.