Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT môn Lịch sử - Năm học 2022

docx 62 trang Trần Thy 10/02/2023 10160
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT môn Lịch sử - Năm học 2022", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docxtai_lieu_on_thi_tot_nghiep_thpt_mon_lich_su_nam_hoc_2022_co.docx

Nội dung text: Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT môn Lịch sử - Năm học 2022

  1. Sau chiến thắng Bình Giã, quân ta mở tiếp chiến dịch xuân – hè 1965 và đã liên tiếp giành được thắng lợi ở An Lão (Bình Định), Ba Gia (Quảng Ngãi), Đồng Xoài (Biên Hòa); đánh dấu sự phá sản của kế hoạch Johnson – Mc. Namara. Kết luận: sự phá sản của hai kế hoạch Stalay-taylor và Johnson-Mc. Namara đã làm cho chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của Mĩ thất bại hoàn toàn. V. MIỀN BẮC XÂY DỰNG BƯỚC ĐẦU CƠ SỞ VẬT CHẤT – KĨ THUẬT CỦA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI (1961 - 1965) Câu 1: Trình bày nội dung và ý nghĩa của Đại hội đại biểu Toàn quốc lần thứ III của Đảng (9 - 1960). Từ ngày 5 đến ngày 10 tháng 9 năm 1960, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III đã diễn ra. Tham dự Đại hội có 525 đại biểu chính thức và 51 đại biểu dự khuyết. Đại hội đã kiểm điểm công tác lãnh đạo của Đảng trong 10 năm kể từ Đại hội II (2/1951), thảo luận và vạch ra đường lối đấu tranh cho cả hai miền trong giai đoạn mới, xác định nhiệm vụ mới của cách mạng cả nước và của từng miền. Đại hội đã xác định rõ nhiệm vụ chiến lược của cả hai miền là: Xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, tăng cường mau chóng lực lượng của miền Bắc về mọi mặt, và “trách nhiệm của cách mạng ở miền Nam là phải trực tiếp làm nhiệm vụ đánh đổ ách thống trị của Đế quốc Mĩ và bè lũ tay sai để giải phóng miền Nam, hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước”. Đại hội bầu Ban chấp hành Trung ương mới gồm 47 ủy viên chính thức và 31 ủy viên dự khuyết; bầu Chủ tịch Hồ Chí Minh làm Chủ tịch Đảng, và đồng chí Lê Duẫn làm Bí thư thứ nhất. Đại hội đã đánh dấu bước phát triển mới trong quá trình xác định đường lối cách mạng ở hai miền Nam – Bắc, định hướng cho sự phát triển của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn 1961 – 1975. VI. MIỀN NAM CHỐNG CHIẾN LƯỢC CHIẾN TRANH CỤC BỘ CỦA MĨ (1965 – 1968) Câu 1: Hãy cho biết hoàn cảnh, âm mưu và thủ đoạn của Mĩ trong chiến lược “chiến tranh cục bộ” ở miền Nam Việt Nam. Đầu năm 1965, đứng trước nguy cơ bị thất bại hoàn toàn của chiến lược chiến tranh đặc biệt, Giônxơn đã chuyển sang chiến lược “chiến tranh cục bộ”: ồ ạt đưa quân viễn chinh, quân chư hầu cùng vũ khí và phương tiện chiến tranh hiện đại vào miền Nam Việt Nam để tiếp tục cuộc chiến tranh xâm lược và mở rộng chiến tranh phá hoại ra miền Bắc Việt Nam. Chiến lược “chiến tranh cục bộ” chính thức bắt đầu từ giữa năm 1965. Đây là hình thức xâm lược thực dân mới được tiến hành bằng lực lượng quân viễn chinh Mĩ, quân chư hầu và ngụy quân. Trong đó quân Mĩ giữ vai trò quan trọng và không ngừng tăng lên về số lượng lẫn trang bị. Tính đến cuối năm 1964, lực lượng quân Mĩ có mặt ở miền Nam khoảng 26.000, đến cuối năm 1965 là 200.000, đến cuối năm 1967 là 537.000. Chưa kể 70.000 lính Mĩ ở Hạm đội 7 và 20.000 lính chư hầu sẳn sàng tham chiến. Mĩ đã mở hàng loạt cuộc hành quân lớn với mục tiêu “tìm diệt và bình định” nhằm vào các căn cứ cách mạng: Mở đầu là cuộc hành quân “tìm diệt” mang tên “ánh sáng sao”, đánh vào căn cứ của ta ở Vạn Tường – Quảng Ngãi. Tiếp đó Mĩ mở liên tiếp hai cuộc phản công lớn trong hai mùa khô 1965 - 1966 và 1966 - 1967 với hàng loạt cuộc hành quân “tìm diệt” và “bình định” vào những vùng “đất thánh Việt Cộng”, hòng tiêu diệt cơ quan đầu não và lực lượng kháng chiến của ta. Câu 2: Quân dân miền Nam đã đánh bại chiến lược “chiến tranh cục bộ” của Mĩ như thế nào? 1. Chiến thắng Vạn Tường (Quảng Ngãi) Ngày 18/08/1965, sau khi chiếm được Chu Lai, Mĩ đã huy động hơn 9.000 lính thủy đánh bộ cùng với nhiều phương tiện chiến tranh hiện đại mở cuộc tấn công vào Vạn Tường để “tìm diệt” lực lượng của ta.
  2. Trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy, có thêm nhiều lực lượng mới chống Mĩ và chính quền Sài Gòn được mở rộng. Sau đợt tấn công Tết, ta tiếp tục tiến công đợt 2 (4/5 – 18/6) và đợt 3 (17/8 – 23/9). Đây là một đòn bất ngờ làm cho địch choáng váng, nhưng do lực lượng của địch còn mạnh, nên chúng đã nhanh chóng tổ chức phản công giành lại những mục tiêu bị ta chiếm và đồng thời cũng đã làm cho ta bị tổn thất khá nặng nề. Tuy vậy, cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân đã làm cho phong trào phản chiến đòi Mĩ rút quân khỏi Việt Nam ở Mĩ dâng cao, buộc tổng thống Giôn- xơn phải tuyên bố “phi Mĩ hóa” chiến tranh, ngừng mọi hoạt động bắn phá miền Bắc và ngồi vào bàn đàm phán với ta để chấm dứt chiến tranh. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đã làm thất bại hoàn toàn chiến lược “chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mĩ, mở ra bước ngoặt của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. VII. MIỀN BẮC VỪA CHIẾN ĐẤU CHỐNG CHIẾN TRANH PHÁ HOẠI LẦN THỨ I CỦA MĨ VỪA SẢN XUẤT (1965 - 1968) Câu 1: Mĩ tiến hành chiến tranh không quân và hải quân phá hoại miền Bắc như thế nào? Tấn công phá hoại miền Bắc là một kế hoạch được tiến hành song song với chiến lược “Chiến tranh cục bộ” ở miền Nam nhằm đánh vào hậu phương của cách mạng miền Nam. Để có cớ tấn công miền Bắc, ngày 31/7/1964, Mĩ dựng lên “sự kiện vịnh Bắc bộ” và cho máy bay ném bom bắn phá một số nơi ở miền Bắc như sông Gianh (Quảng Bình), Vinh - Nghệ An Ngày 7/02/1965, Mĩ cho máy bay ném bom bắn phá thị xã Đồng Hới, đảo Cồn Cỏ, chính thức mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc. Mĩ đã huy động hàng nghìn máy bay tối tân, thuộc 50 loại khác nhau, trong đó có cả máy bay B52, F111 cùng các loại vũ khí hiện đại và một lực lượng hải quân thường xuyên có mặt ở Thái Bình Dương, các căn cứ hải quân ở Nam Việt Nam và các nước Đông Nam Á khác. Lực lượng không quân và hải quân Mĩ đã ném bom, bắn phá liên tục với cường độ ngày càng tăng. Trung bình mỗi ngày, miền Bắc phải hứng chịu khoảng 1.600 tấn bom đạn của Mĩ trút xuống. Mục tiêu tấn công của Mĩ không chỉ là các căn cứ quân sự mà còn bao gồm cả những mục tiêu dân sự: các nhà máy, xí nghiệp, hầm mỏ, công trình thủy lợi, khu dân cư, trường học, bệnh viện, nhà thờ, nhà trẻ, chùa chiềng Câu 2: Miền Bắc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất, vừa chiến đấu vừa sản xuất và làm nghĩa vụ hậu phương lớn như thế nào? 1. Miền Bắc chống chiến tranh phá hoại của Mĩ Để phù hợp với tình hình mới, tháng 01/1965, Hội đồng quốc phòng đã họp và đề ra nhiệm vụ, phương hướng công tác trước mắt của miền Bắc là tăng cường công tác phòng thủ, trị an, sẳn sàng chiến đấu. Để chống chiến tranh phá hoại của Mĩ, miền Bắc đã thực hiện “quân sự hóa toàn dân”, đào đắp công sự chiến đấu, hầm hào, phân tán dân khỏi những vùng trọng điểm để tránh thiệt hại lớn, đảm bảo đời sống ổn định cho người dân. Nhân miền Bắc đã huy động toàn dân chống giặc; bên cạnh lực lượng phòng không, hải quân với vũ khí và phương tiện chiến tranh hiện đại, lực lượng dân quân, du kích, tự vệ chiến đấu của toàn dân không ngừng ngày đêm hỗ trợ, phục vụ chiến đấu và khắc phục hậu quả do chiến tranh tàn phá. Trong hơn 4 năm (từ 5/8/1964 - 1/11/1968), quân và dân miền Bắc đã bắn rơi 3.234 máy bay Mĩ (trong đó có 6 máy bay B52, 3 máy bay F.111) diệt và bắt sống hàng nghìn giặc lái Mĩ; bắn chìm và bị thương 43 tàu chiến và tàn biệt kích. Cùng với những thất bại ở chiến trường miền Nam, đặc biệt là sau cuộc tổng công kích, tổng khởi nghĩa tết Mậu Thân – 1968, Mĩ buộc phải tuyên bố ném bom hạn chế miền Bắc từ vì tuyến 20 trở ra kể từ ngày 31/3/1968 và đến ngày 01/11/1968, Mĩ ngừng ném bom, bắn phá miền Bắc hoàn toàn. 2. Chi viện cho miền Nam
  3. 2.1 Đập tan âm mưu mở rộng chiến tranh sang Lào và Campuchia Ngày 18 tháng 3 năm 1970, Mĩ giật dây Lon-non đảo chính Xihanúc và dựng lên chính quyền tay sai của chúng để cắt đứt con đường tiếp viện qua Campuchia của ta và mở rộng chiến tranh sang Campuchia để truy quét các cơ quan trung ương cách mạng miền Nam. Đồng thời, Mĩ còn mở rộng chiến tranh sang Lào để cô lập cách mạng miền Nam và cắt đứt con đường tiếp viện chiến lược – đường trường sơn của ta. Trước tình hình đó, ngày 24, 25/4/1970, ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia đã họp hội nghị cấp cao để biểu thị quyết tâm đoàn kết chiến đấu của nhân dân ba nước Đông Dương. Từ 30/4 đến 30/6/1970, quân giải phóng miền Nam đã phối hợp với quân cách mạng Campuchia đập tan cuộc hành quân xâm lược Campuchia của hơn 10 vạn quân Mĩ – Ngụy Sài Gòn; loại khỏi vòng chiến đấu 17.000 quân Mĩ – Ngụy, giải phóng 5 tỉnh Đông Bắc Campuchia, giam chân một lực lượng lớn quân ngụy Sài Gòn ở đây. Cũng trong thời gian trên, quân tình nguyện của ta đã cùng quân dân Lào đập tan cuộc hành quân lấn chiếm cánh đồng Chum (Xiêng Khoảng) của Mĩ – Ngụy, giải phóng một vùng rộng lớn (A-tô-pô, Saravan, Nam Lào). 2.2. Đánh bại cuộc hành quân Lam Sơn 719 của Mĩ - Ngụy Đầu năm 1971, Mĩ-Ngụy mở một cuộc hành quân lớn mang tên Lam Sơn 719 nhằm chiếm giữ đường 9 Nam Lào, cắt tuyến chi viện chiến lược của ta trên đường Trường Sơn. Từ 12/2/1971 đến 23/3/1971, quân dân ta đã phối hợp với quân dân Lào đánh bại cuộc hành quân “Lam Sơn 719” của hơn 450.000 quân Mĩ-ngụy, buộc chúng phải rút khỏi đường 9; giữ vững được tuyến đường chi viện chiến lược của ta. 2.3. Ta mở cuộc tiến công chiến lược năm 1972 Phát huy thắng lợi trên các mặt trận quân sự, chính trị và ngoại giao trong hai năm 1970 – 1971, ta đã quyết định mở cuộc tiến công chiến lược trên toàn miền Nam trong năm 1972. Ngày 30/3/1972, quân ta tấn công vào Quảng Trị, Từ đó mở rộng tiến công ra khắp chiến trường miền Nam và kéo dài trong năm 1972. Trong năm 1972, Quân ta đã tấn công địch trên quy mô lớn với cường độ mạnh và ở hầu hết các địa bàn chiến lược quan trọng của địch; chọc thủng 3 tuyến phòng thủ mạnh nhất của địch ở Quảng Trị, Tây Nguyên và Đông Nam Bộ. Trong 3 tháng đầu, quân ta đã loại khỏi vòng chiến hơn 20 vạn quân ngụy, giải phóng một vùng lãnh thổ rộng lớn với hơn 1 triệu dân. Sau đòn tấn công bất ngờ của ta, quân ngụy được sự yểm trợ của không quân và hải quân Mĩ đã phản công mạnh, gây cho ta nhiều thiệt hại. Đồng thời, Mĩ cũng tiến hành ném bom và bắn phá miền Bắc trở lại. Cuộc tiến công chiến lược năm 1972 cho thấy, quân ngụy với quân số hơn 1 triệu được trang bị hiện đại vẫn không đủ khả năng để “tự đứng vững” và “tự gánh vác lấy chiến tranh” khi quân viễn chinh Mĩ rút lui. Trước tình thế đó, Mĩ đã tuyên bố “Mĩ hóa” trở lại cuộc chiến tranh – tức là thừa nhận sự thất bại của Việt Nam hóa chiến tranh. . IX. MIỀN BẮC KHÔI PHỤC VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI, CHIẾN ĐẤU CHỐNG CHIẾN TRANH PHÁ HOẠI LẦN THỨ HAI CỦA MĨ (1969 - 1973) Câu 1: Trình bày diễn biến cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại lần II của Mĩ (1972 - 1973) ở miền Bắc. Sau cuộc tiến công chiến lược năm 1972 của quân dân ta ở miền Nam, Nich – xơn ra lệnh ném bom, bắn phá trở lại miền Bắc và ồ ạt tham chiến ở miền Nam nhằm cứu vãn tình thế. Ngày 06/4/1972, Mĩ đã cho không quân và hải quân đánh phá một số nơi thuộc khu IV cũ. Ngày 16/4/1972 Nich - xơn tuyên bố chính thức mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ 2.
  4. Ngay sau khi tái đắc cử tổng thống (08/11/1972), Ních-xơn đã trở mặt, chúng đòi xét lại bản Hiệp định đã được thỏa thuận, theo hướng có lợi cho chúng. Để gây sức ép buộc ta phải nhượng bộ, Ních-xơn đã phê duyệt kế hoạch tập kích chiến lược bằng máy bay B52 vào Hà Nội và Hải Phòng vào cuối năm 1972. Chúng bị quân dân ta đánh bại bằng một trận “Điện Biên Phủ trên không” và buộc phải trở lại bàn đàm phán. Ngày 23/01/1973, Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam đã được kí tắt; và ngày 27/01/1973 bản hiệp định được chính thức kí kết. Ngày 02/3/1973, Hội nghị quốc tế về Việt Nam (gồm 12 nước) đã kí định ước ghi nhận và đảm bảo việc thi hành Hiệp định Paris. Câu 4: Trình bày những nội dung cơ bản của hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam (27/01/1973). Ý nghĩa của nó đối với sự nghiệp giải phóng hoàn toàn miền Nam. - Hoa Kì và các nước cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. - Hai bên ngừng bắn ở miền Nam vào lúc 24h00 ngày 27/01/1973 và Hoa Kì cam kết chấm dứt mọi hoạt động quân sự chống miền Bắc Việt Nam. - Hoa Kì phải rút hết quân viễn chinh và quân chư hầu về nước, hủy bỏ hết các căn cứ quân sự, cam kết không tiếp tục dính líu hay can thiệp vào công việc nội bộ của miền Nam Việt Nam. - Nhân dân miền Nam Việt Nam tự quyết định tương lai chính trị của họ thông qua tổng tuyển cử tự do, không có sự can thiệp của nước ngoài. - Các bên thừa nhận thực tế ở miền Nam có hai chính quyền, hai quân đội, hai vùng kiểm soát và ba lực lượng chính trị. - Các bên ngừng bắn tại chỗ, trao trả cho nhau tù binh và dân thường bị bắt. - Hoa Kì cam kết góp phần vào việc hàn gắn vết thương chiến tranh ở Việt Nam và Đông Dương, thiết lập quan hệ bình thường cùng có lợi với Việt Nam. Ý nghĩa của Hiệp định Paris Là kết quả của cuộc đấu tranh kiên cường bất khuất của quân và dân ta trên cả hai miền đất nước. Buộc Mĩ phải thừa nhận các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân ta. Đó là thắng lợi lịch sử quan trọng, tạo thời cơ thuận lợi để nhân dân ta tiến lên đánh sụp ngụy quyền, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. BƯỚC PHÁT TRIỂN MỚI CỦA CÁCH MẠNG MIỀN NAM GIAI ĐOẠN 1973 – 1974 Câu 1: Khái quát tình hình địch và ta trước cuộc tổng tấn công và nổi dậy mùa xuân 1975. Sau hiệp định Paris, Miền Bắc trở lại hòa bình; nhân dân miền Bắc ra sức khắc phục hậu quả chiến tranh khôi phục và phát triển kinh tế; đảm bảo khả năng chi viện lớn về sức người, sức của cho cách mạng miền Nam. Lực lượng cách mạng miền Nam đã được phục hồi và phát triển nhanh chóng. Trong khi đó ở miền Nam, ngụy quân gặp nhiều khó khăn do quân đội Mĩ và chư hầu phải rút về nước, viện trợ của Mĩ ngày càng bị cắt giảm. Như vậy, sau hiệp định Paris, so sánh lực lượng trên chiến trường miền Nam thay đổi nhanh chóng theo hướng có lợi cho ta. Câu 2:Trình bày cuộc đấu tranh chống chiến dịch “bình định lấn chiếm”, tạo thế và lực tiến tới giải phóng hoàn toàn miền Nam. Ngày 29/3/1973, toán lính Mĩ cuối cùng đã rời khỏi nước ta. Tuy vậy, Mĩ vẫn còn duy trì được chính quyền tay sai (Ngụy quyền) ở miền Nam nên đã giữ lại hơn hai vạn cố vấn quân sự và tiếp tục viện trợ kinh tế, quân sự cho chính quyền Ngụy.
  5. Ta tập trung binh lực lớn cùng với vũ khí, vật chất kĩ thuật mở chiến dịch quy mô lớn ở Tây Nguyên. Ngày 04/3/1975, ta đánh nghi binh địch ở Kontum và Plâycu để thu hút lực lượng của địch về phía Bắc Tây Nguyên làm cho việc phòng thủ Đắc Lắc và Buôn Ma Thuột ở phía nam Tây Nguyên trở nên sơ hở. Ngày 10/3/1975, ta bất ngờ tấn công vào Buôn Ma Thuột làm cho địch không kịp trở tay. Sau 2 ngày chiến đấu, ta đã giải phóng hoàn toàn thị xã Buôn Mê Thuột. Thất thủ Buôn Mê Thuột, ngày 12/3/1975, địch cố sức dồn quân tái chiếm lại vị trí chiến lược này nhưng đã bị ta đánh bại. Ngày 14/3/1975, Nguyễn Văn Thiệu đã ra lệnh rút quân khỏi Tây Nguyên về giữ vùng ven biển Nam Trung Bộ, chờ cơ hội để tái chiếm lại Tây Nguyên. Nắm được kế hoạch rút lui của địch, ta đã bố trí mai phục và truy kích địch trên đường rút lui làm cho chúng tan rã hòan tòan. Đến ngày 24/3/1975, ta đã giải phóng hoàn toàn Tây Nguyên với 60 vạn dân. Chiến dịch Tây Nguyên đã làm rung chuyển cả chiến trường niềm Nam, làm suy sụp ý chí và tinh thần chiến đấu của Ngụy quân, Ngụy quyền và đồng thời cho thấy, thời cơ thuận lợi để giải phóng hoàn toàn miền Nam đã đến. 2. Chiến dịch Huế – Đà Nẵng Diễn biến thuận lợi của chiến dịch Tây Nguyên cho thấy, thời cơ chiến lược đến nhanh và hết sức thuận lợi. Bộ chính trị đã kịp thời đưa ra kế hoạch giải phóng Sài Gòn và hoàn toàn miền Nam trong Năm 1975; trong đó, nhiệm vụ trước mắt là giải phóng Huế – Đà Nẵng. Ngày 19/3 quân ta đã tấn công vào Quảng Trị, địch bỏ Quảng Trị rút về Huế và Đà Nẵng; sau đó, chúng có dấu hiệu bỏ Huế rút vào cố thủ ở Đà Nẵng. Ngày 21/3/1975, quân ta thọc sâu vào căn cứ của địch, đồng thời chặn đường rút chạy của chúng (Quốc lộ 1, Cửa Thuận An và cửa Tư Hiền). Ngày 25/3/1975, quân ta tiến thẳng vào cố đô Huế, ngày 26/3 thành phố Huế và toàn tỉnh Thừa Thiên đã được giải phóng. Cùng với chiến thắng ở Huế, ngày 24/3/1975, ta giải phóng Tam Kì, ngày 25/3/1975, giải phóng Quảng Ngãi, ngày 26/3/1975, giải phong Chu Lai. Như vậy, đến ngày 26/3/1975, Đà Nẵng – thành phố lớn thứ hai ở miền Nam, một căn cứ quân sự liên hợp lớn nhất của Mĩ – ngụy – bị rơi vào thế cô lập. Hơn 10 vạn quân ở đây trở nên hoảng loạn và mất hết khả năng chiến đấu. Địch đã phải sử dụng máy bay để di tản cố vấn quân sự Mĩ và một bộ phận Ngụy quân ra khỏi thành phố Đà Nẵng. Sáng 29/3/1975, từ cả ba phía Bắc, Tây và Nam, quân ta tiến vào Đà Nẵng và đến 3 giờ chiều thành phố Đà Nẵng được giải phóng hoàn toàn. Cùng lúc với chiến thắng ở Tây Nguyên, Huế, Đà Nẵng, sau khi giải phóng Tây Nguyên, lực lượng của ta đã tiến xuống giải phóng các tỉnh ven biển miền Trung: Quy Nhơn, Phú Yên (01/4/1975), Khánh Hòa (03/4/1975) Như vậy, đến đầu tháng 4 năm 1975, ta đã giải phóng được một vùng rộng lớn và liên tục từ Quảng Trị đến Khánh Hòa. 3. Chiến dịch Hồ Chí Minh Sau khi thất bại liên tiếp ở Tây Nguyên, Huế, Đà Nẵng, địch lùi về lập tuyến phòng thủ từ xa (Phan Rang – Xuân Lộc – Tây Ninh) để bảo về Sài Gòn. Trước những chuyển biến nhanh chóng của tình hình, ngày 25/3/1975, Bộ chính trị đã họp và nhận định: “Thời cơ cách mạng đã đến, phải tập trung lực lượng giải phóng miền Nam trước mùa mưa” và quyết định mở chiến dịch giải phóng Sài Gòn mang tên “Chiến dịch Hồ Chí Minh”. Ngày 08/4/1975, Bộ chỉ huy “Chiến dịch Hồ Chí Minh” đã được thành lập, với 5 quân đoàn và chuẩn bị ra quân với tinh thần “đi nhanh đến, đánh nhanh thắng”, “thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng”.
  6. Ngoài ra, tình đoàn kết của nhân dân ba nước Đông Dương cũng đã góp phần làm nên thắng lợi của mỗi nước. 3.2. Khách quan Nhờ vào sự giúp đỡ của Liên Xô, Trung Quốc và các nước XHCH anh em. Sự đồng tình ủng hộ của phong trào cộng sản, phong trào giải phóng dân tộc và các lực lượng dân chủ hòa bình thế giới trong đó có nhân dân Mĩ. Chuyên đề 5 HOÀN THÀNH THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC - MỞ RỘNG QUAN HỆ QUỐC TẾ VÀ ĐẤU TRANH BẢO VỆ TỔ QUỐC (1975 – 1979) Câu 1: Việc hoàn thành thống nhất đất nước về mặt nhà nước đã diễn ra như thế nào từ sau đại thắng mùa xuân 1975. Ý nghĩa lịch sử. Sau đại thắng mùa xuân 1975, đất nước đã thống nhất về mặt lãnh thổ. Song, mỗi miền vẫn còn tồn tại một hình thức nhà nước khác nhau, làm cho nhiệm vụ thống nhất đất nước về mặt nhà nước vẫn chưa hoàn thành. Xuất phát từ thực tế đó, Hội nghị BCH Trung ương Đảng lần 24 đã đề ra chủ trương đẩy mạnh việc thống nhất đất nước về mặt nhà nước. Từ ngày 15 đến 21 tháng 11 năm 1975, Hội nghị hiệp thương giữa 2 miền Bắc Nam đã nhất trí tán thành chủ trương thống nhất của hội nghị TW lần thứ 24. Ngày 25/4/1976, cuộc tổng tuyển cử bầu Quốc hội chung được tiến hành trong cả nước. Hơn 23 triệu cử tri đi bầu và đã bầu ra 492 đại biểu. Cuối tháng 6, đầu tháng 7 Quốc hội mới (khóa VI) họp kì thứ nhất tại Hà Nội và quyết định: + Lấy tên nước là Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, thủ đô là Hà Nội. Quyết định quốc huy, quốc kì, quốc ca và đổi tên Tp. Sài Gòn thành Tp. Hồ Chí Minh. + Bầu các chức vụ lãnh đạo cao cấp: Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng, Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Chủ tịch UB thường vụ quốc hội Trường Chinh. Như vậy, công việc thống nhất đất nước về mặt nhà nước đã hoàn thành. Ngày 31/01/1977, tại Tp. Hồ Chí Minh, mặt trận dân tộc ở cả hai miền đã họp và thống nhất thành mặt trận tổ quốc Việt Nam. Ngày 18/12/1980, hiến pháp nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam được Quốc hội thông qua. Câu 2: Trình bày việc mở rộng quan hệ quốc tế. Việt Nam hòa bình thống nhất đã tạo điều kiện cho việc mở rộng quan hệ với các nước trên thế giới: tính đến ngày 2/7/1976, ta đặt quan hệ với 94 nước, đến 31/12/1980 tăng lên 106 nước và đến 31/12/1989 là 114 nước. Ngày 20/9/1977, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 149 của Liên Hiệp Quốc và là thành viên của 20 tổ chức quốc tế khác. Bên cạnh những thuận lợi đó, hoạt động đối ngoại của Việt Nam trong giai đoạn này cũng vấp phải khó khăn, thách thức lớn do chính sách bao vây cấm vận, chống phá của Mĩ và các thế lực thù địch cùng với chính sách “đóng cửa” của ta. Câu 3: Trình bày công cuộc đấu tranh bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ tổ quốc. 1. Đấu tranh bảo vệ biên giới Tây Nam Do có âm mưu từ trước, nên ngay sau khi giành được độc lập, tập đoàn Pôn-pốt (Khơme đỏ) ở Campuchia đã quay súng bắn vào nhân dân ta: Ngày 03/5/1975, chúng đánh chiếm Phú Quốc, ngày 10/5/1975, chúng đánh chiếm đảo Thổ Chu. Ngày 22/12/1978, chúng huy động 19/23 sư đoàn bộ binh cùng nhiều đơn vị pháo binh, xe tăng tiến đánh Tây Ninh nhằm tiến sâu vào lãnh thổ nước ta.
  7. Đặc biệt là chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước đã thực sự phát huy quyền làm chủ kinh tế của nhân dân, khơi dậy tiềm năng và sức sáng tạo của quần chúng để phát triển sản xuất, tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động, tăng sản phẩm cho xã hội: + Về lương thực thực phẩm, từ chỗ thiếu ăn triền miên, năm 1988 còn phải nhập 45 vạn tấn gạo, đến năm 1990 chúng ta đã đáp ứng được nhu cầu trong nước, có dự trữ và xuất khẩu, góp phần quan trọng ổn định đời sống nhân dân. + Về hàng hóa trên thị trường, đặc biệt là hàng tiêu dùng dồi dào, đa dạng, mẫu mã – chất lượng tiến bộ hơn trước, lưu thông tương đối thuận lợi. + Về kinh tế đối ngoại, phát triển mạnh và mở rộng hơn trước: từ năm 1986 đến 1990, hàng xuất khẩu tăng gấp 3 lần, hàng nhập khẩu giảm đáng kể. + Kiềm chế được một bước đà lạm phát, đời sống nhân dân giảm bớt khó khăn. + Bước đầu hình thành nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước. Những thành tựu trong bước đầu thực hiện đường lối đổi mới đã chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn, bước đi của công cuộc đổi mới là phù hợp. * Hạn chế Đất nước vẫn chưa ra khỏi khủng hoảng kinh tế – xã hội; nền kinh tế còn mất cân đối lớn, lạm phát tuy có giảm, nhưng vẫn còn ở mức cao, thất nghiệp gia tăng. Chế độ tiền lương còn bất hợp lí, mức sống của những người sống chủ yếu bằng lương và của một bộ phận nông dân bị giảm sút. Sự nghiệp văn hóa có những mặt tiếp tục xuống cấp, hiện tượng tham nhũng, hối lộ, bất công xã hội, vi phạm pháp luật, kỉ luật, kỉ cương vẫn còn khá nặng nề và phổ biến. 4. Thành tựu và hạn chế bước đầu của công cuộc đổi mới (1996 - 2000) * Thành tựu Nền kinh tế vẫn giữ được nhịp độ tăng trưởng khá, cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch tích cực: Tổng sản phẩm trong nước tăng bình quân 7%. Công nghiệp tăng bình quân 13,5%, nông nghiệp tăng 5,7% Cơ cấu các ngành kinh tế từng bước chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Kinh tế đối ngoại tiếp tục phát triển: xuất khẩu đạt 51,6 tỉ USD, nhập khẩu đạt 61 tỉ USD, vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đạt khoảng 10 tỉ USD (tăng 1,5 lần so với 5 năm trước). Đặc biệt, đến năm 2000, Việt Nam đã có 40 dự án đầu tư ra nước ngoài. Khoa học và công nghệ có bước chuyển biến tích cực. Giáo dục và đào tạo có bước phát triển mới cả về quy mô, chất lượng, hình thức đào tạo và cơ sở vật chất. Các lĩnh vực văn hóa – xã hội phát triển đáng kể. Tình hình chính trị - xã hội cơ bản ổn định, quốc phòng an ninh được tăng cường, quan hệ đối ngoại không ngừng được mở rộng. Những thành tựu và ưu điểm trong 5 năm (1996 - 2000) nói riêng và 15 năm đổi mới nói chung đã làm thay đổi bộ mặt của đất nước và cuộc sống của nhân dân, củng cố vững chắc độc lập dân tộc và chế độ xã hội chủ nghĩa, nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế. * Hạn chế Nền kinh tế phát triển chưa vững chắc, năng suất lao động, sức cạnh tranh thấp. Một số vấn đề văn hóa – xã hội bức xúc và gay gắt chậm được giải quyết, tình trạng thất nghiệp còn cao, khoa học và công nghệ còn lạc hậu, chưa đáp ứng tốt yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tình trạng tham nhũng chưa khắc phục triệt để.